Phần 54
Năm 2007, Châu Kiệt Luân ra mắt bộ phim điện ảnh đầu tay do chính anh viết kịch bản và kiêm luôn thủ vai nam chính, mang tựa đề “Bí mật không thể nói” – tựa tiếng Anh là “Secret”. Lúc ban đầu, tôi không hề biết bộ phim này đạt rất nhiều giải thưởng danh giá như Phim Đài Loan xuất sắc nhất của năm, Kĩ xảo hình ảnh xuất sắc nhất hay Phim Châu Á xuất sắc nhất.
Mà tôi chỉ thích nhất là âm nhạc của phim, không chỉ riêng mỗi bài hát chủ đề mà là toàn bộ. Từ nhạc mở đầu, mỗi cảnh, mỗi lúc chuyển cảnh, nhạc cao trào, nhạc diễn tấu, và cả nhạc nền kết thúc. Sau này tôi mới biết ca khúc chủ đề “Bí mật không thể nói” cũng đạt giải Nhạc phim xuất sắc nhất.
Nhưng làm tôi ấn tượng nhất lại cũng không phải là ca khúc chủ đề, mà lại chính là bản độc diễn dương cầm do chính Châu lão sư soạn ra kiêm luôn người đầu tiên biểu diễn. Bản nhạc mang tên “Time Travel” được biên soạn ở hai phiên bản chậm và nhanh. Và “Time Travel” đóng vai trò là mấu chốt chủ yếu nhất, bí mật nhất, huyền ảo nhất trong phim “Secret”.
Tại sao tôi lại nhắc đến những điều này?
Vì thứ nhất, tôi muốn giới thiệu cho những độc giả nào chưa biết thì nếu rảnh rỗi, hãy tìm xem “Secret” của Châu Kiệt Luân và cảm nhận sự tinh tế từ bộ phim này.
Về diễn viên thì miễn bàn, Châu Kiệt Luân vai nam chính, Quế Luân Mỹ vai nữ chính, ảnh đế Huỳnh Thu Sinh vai cha nam chính. Từng vai diễn như được đo ni đóng giày cho người thể hiện.
Về kịch bản, cùng là chủ đề tình yêu pha lẫn yếu tố huyền bí của một chuyện tình vượt thời gian – mà bây giờ chúng ta hay gọi là thể loại xuyên không. Đại khái nam chính Tương Luân là học sinh mới chuyển đến ngôi trường dành riêng cho những người có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc. Một ngày nọ, Tương Luân tình cờ nghe được một giai điệu bí ẩn rất đỗi huyễn hoặc. Ngay sau đó, Tương Luân gặp gỡ nữ chính là Tiểu Vũ. Cả hai đều là những học sinh xuất sắc nhất của chuyên ngành Piano. Dần dà hai người nảy sinh tình cảm, nhưng đối với Tương Luân, cô bạn gái Tiểu Vũ luôn là một điều gì đó bí ẩn đến ma mị, cũng không kém gì giai điệu mà anh đã nghe Tiểu Vũ chơi trong lần đầu tiên hai người gặp nhau.
Diễn biến phim ngày một đẩy đến cao trào khi Tương Luân phát hiện ra chỉ mình anh có thể thấy được Tiểu Vũ, còn lại các bạn học đều nghĩ anh tuy đẹp trai học giỏi nhưng thích chơi nổi vì đã khiêu vũ một mình trong lễ hội trường. Từ đó, Tương Luân dần nhớ lại những điều bí ẩn mà anh đã luôn thắc mắc với Tiểu Vũ, mà mấu chốt lại là giai điệu ma mị kia. Và câu trả lời anh nhận được từ Tiểu Vũ lại chỉ là một động tác ra hiệu im lặng cùng thông điệp “Đó là một bí mật không thể nói ra. ”
Cuối cùng, những nút thắt dần được tháo gỡ, mạch phim đưa tâm trạng của tôi từ vui đến buồn, hết buồn lại vui, tim cứ đập binh binh trong lồng ngực. Lúc thì tôi nghĩ Tiểu Vũ là ma, lúc thì tôi cho rằng Tương Luân bị điên. Nhưng hóa ra kết phim tuy có đôi chỗ gượng ép lại làm tôi cảm thấy cực kì ấn tượng vì kịch bản rất chặt chẽ và sáng tạo.
Đến khi biết Châu Kiệt Luân cũng là tác giả kịch bản, tôi lại càng ngưỡng mộ anh hơn nữa. Quả là người tài làm gì cũng giỏi.
Về nhạc phim, thì ôi trời cha mẹ thánh thần ơi, hay từ đầu đến cuối. Hết ấn tượng về giai điệu của bản “Time Travel” lần đầu hai người gặp nhau, tôi lại chuyển sang trầm trồ ngưỡng mộ khi xem đoạn nam chính đấu đàn song tấu với “hoàng tử dương cầm” của trường. Rồi những đoạn họ Châu chơi đàn một tay, nam nữ chính bốn tay trên cùng một đàn. Ôi quá trời chu cha quá đất, nhạc phim phải nói rất đắt giá và bắt tai.
Vì lẽ đó, lí do thứ hai khi tôi nhắc đến những điều này, là về Tiểu Mai, nàng là người giới thiệu và nhất quyết bảo tôi phải xem phim này cho bằng được.
Vốn biết nàng thần tượng Châu Kiệt Luân, thế nên chiều chủ nhật sau cái hôm nàng truy bài đám Tuấn rách lên bờ xuống ruộng, tôi được rủ qua nhà xem phim cùng.
– Ủa, mà coi phim gì? – Tôi thắc mắc qua điện thoại.
– Bí mật! – Nàng đáp, giọng nói không giấu được sự thích thú.
– Đằng nào chiều nay anh cũng coi mà, nói đi, phim gì? Lỡ anh coi rồi thì sao? – Tôi lại hỏi.
– Bí mật! – Tiểu Mai lặp lại một lần nữa. – Vậy nha, em cúp máy đây. Nhớ đúng giờ đó, phim tới một tiếng rưỡi lận!
Y hẹn ba giờ chiều, tôi đã yên vị trong phòng khách nhà nàng, khoái trá nhấm nháp trà đào phiên bản nóng hổi.
– Sao, nói anh biết phim gì được chưa? – Tôi vẫn thắc mắc.
– Bí mật! – Tiểu Mai bình thản đáp.
Lần đầu tiên thấy nàng giỡn dai đến vậy, tôi cười khổ:
– Thôi mà, tới giờ còn không chịu nói, không lẽ là phim kinh dị hay sao?
Dè đâu Tiểu Mai lại cũng tròn mắt nhìn tôi, nàng hỏi ngược:
– Anh có bị làm sao không?
– Sao là sao? – Tôi chưng hửng.
– Em nói tên phim là “Bí mật” đến giờ là ba lần rồi mà anh hỏi hoài vậy, hở? – Nàng nhíu mày nhìn tôi bằng ánh mắt cũng hoang mang không kém gì tôi lúc này.
– Cái gì? Tên phim là… Bí Mật á?
– Ừa, lúc anh hỏi em đã trả lời rồi mà, sao vậy?
– Trời đất quỷ thần ơi! – Tôi vỡ lẽ ra rồi ôm mặt cười khổ. – Anh tưởng em nói là bí mật không thể nói ra được nên quyết giữ tới tận lúc này á chớ!
Nghe tôi cảm thán, Tiểu Mai bỗng nở một nụ cười bí hiểm:
– Đúng là “bí mật không thể nói” ra thật, không trách anh được!
Nhấc con mèo đần lên ôm vào lòng, Tiểu Mai với tay lấy cái điều khiển từ xa hướng về màn hình tivi, và thế là “Secret” của Châu lão sư được trình chiếu. Thủy chung từ đầu đến cuối, cả tôi lẫn Tiểu Mai chẳng ai nói với ai câu nào vì hai đứa đều giống nhau ở chỗ khi xem phim chỉ im lặng tập trung thưởng thức. Và hai đứa đều đồng ý rằng đó là cách coi phim hay nhất, lại cũng văn minh nhất nhằm tôn trọng người khác nếu đang xem phim trong rạp.
Mạch phim đưa đẩy, tôi lúc đầu còn ngồi bình thản tựa người ra ghế. Về sau thì phải ngồi thẳng dậy, rồi lại còn nhoài về phía trước, có lúc lại chồm hổm lên mà chẳng hề hay biết. Đáng kể nhất là đoạn dòng thư bút xóa của Tiểu Vũ hiện trên mặt bàn Tương Luân rồi nhanh chóng bị cũ lại và ố vàng, kết hợp với nhạc nền ma mị “Flash back” lúc đó đã khiến tôi bất giác nổi da gà, rồi toát mồ hôi hột khi nghĩ rằng Tiểu Vũ là một hồn ma.
Và điều đặc biệt ở đây, vì là một bộ phim về âm nhạc nghệ thuật nên có rất nhiều bản nhạc hay, kể cả Piano lẫn đàn Guitar. Như Guitar thì có bản “Fresh water seaside” và “First kiss”, Piano thì có “Ride with me” với “Angel”. Tôi có để ý vài lần thấy khi diễn biến phim ở những đoạn nam nữ chính solo Piano hay song tấu đấu đàn, bàn tay phải của Tiểu Mai cứ nhịp nhịp theo trong vô thức dù mắt vẫn hướng nhìn vào tivi. Chứng kiến những ngón tay thon dài trắng muốt nảy lên từng chập theo từng âm tiết, tôi biết cô bạn gái của mình đang tập trung ghê gớm lắm, hẳn là đang chơi lại từng bản nhạc phim trong tâm tưởng.
Trình độ này trong âm nhạc tôi không biết gọi là gì, nhưng trong võ thuật thì gọi là “chiêu xuất tùy tâm”. Tức trình độ đã ở mức lô hỏa thuần thanh, chiêu số vận dụng đến mức tùy tâm sở dục, thuần thục đến mức tay chân tự phản xạ còn nhanh hơn cả suy nghĩ.
Bộ phim kết thúc trong vỡ òa, cũng là lúc bức màn bí ẩn về giai điệu huyễn hoặc của Tiểu Vũ đã được vén lên. Bản nhạc mang tên gọi “Time Travel”, tạm hiểu là du hành thời gian. Quả là cái tên nói lên tất cả. Và tôi có lẽ năng khiếu cảm thụ âm nhạc cũng gọi là tạm được, thì hình như bản thân có nghe ra cái chất “dòng thời gian chạy ngược xuôi” ở trong “Time Travel”.
– …
– …
Hai đứa vẫn còn lặng yên ngỗi thẫn thờ trên ghế. Không khí bỗng chốc chìm vào tịch mịch. Tôi thì đang mải đuổi theo suy nghĩ không biết khúc cuối, Tương Luân đã thực sự trở về quá khứ hay đoạn kết chỉ là ảo tượng do anh mộng ra trước khi chết.
Còn Tiểu Mai, tay nàng vẫn nhịp theo giai điệu.
Mèo đần bỗng dưng thấy hai người chủ của nó tự nhiên im ru bà rù, mới lắc lư cái đầu tròn hết nhìn tôi lại nhìn Tiểu Mai, chừng như chịu hết xiết phải kêu lên một tiếng:
– Méo! – To rõ to.
Đến lúc ấy thì cả hai mới choàng tỉnh mộng. Tôi thở hắt ra, tựa hẳn vào ghế mà cảm khái:
– Phim hay quá trời quá đất, không biết lúc cuối vậy là sao em ha?
Tần ngần một lát, Tiểu Mai mới trả lời:
– Em nghĩ đây là kết thúc mở, buồn hay vui là tùy mỗi người!
– Anh cũng nghĩ vậy, chậc… mà công nhận nữ chính xinh thiệt, cũng chơi Piano giỏi nữa!
– Nhưng giỏi không bằng Châu lão sư, Quế Luân Mỹ chỉ là lúc nhỏ có tập luyện thôi!
– Ừ!
– …
– Á à… mê nữ chính nữa ha? Em cũng chơi dương cầm nè, sao không khen?
– Trời đất, thì người ta đẹp gái đi đóng phim, coi xong khen một tiếng cũng không cho nữa hả?
– Vậy chứ sao cái lúc em khen Châu Kiệt Luân đẹp trai, mặt anh nhìn thảm vậy?
– Hơ, em khen cả buổi, anh mới nói có một câu. Bữa đó còn anh còn lo em nói quá bị nghẹn đó!
– Á à a… bây giờ lại còn trù em bị tai nạn nữa mà, để cho anh có cơ hội đi tìm nữ chính chứ gì?
– Nữ chính ở tận Đài Loan, anh tìm kiểu gì được?
– Nói kiểu vậy thì chắc gần bên là đi tìm rồi ha, tui biết ông quá mà, mê gái từ nhỏ đến lớn!
– Ể ể em vừa phải thôi nha, anh cũng đi tìm em xa xôi lắm còn gì?
– Hồi nào? Em tự tới tìm anh thì có!
– Nè nè, hồi đầu tiên có phải anh có mẫu người trong mơ là em không? Sau đó anh vận dụng siêu năng lực, gửi giấc mơ tới cho một người có thật. Giấc mơ của anh bay qua Nhật Bản, ám vào đầu em, thế là em về Việt Nam. Chẳng phải anh đi tìm em xa xôi cách trở thì là gì?
– Già mồm lắm, gì cũng nói được! – Nàng bĩu môi.
– Hê hê, thôi anh đói rồi, nấu cơm cuộn trứng cho ăn đi mà! – Tôi cười khả ố.
Nào ngờ Tiểu Mai lại lắc đầu từ chối:
– Không, em bận rồi, anh… chịu khó về nhà ăn đi!
– Ơ… lúc trưa nói coi phim xong thì cho anh ăn tối mà? – Tôi chưng hửng. – Sao giờ lại lòi ra bận bịu gì nữa?
Nàng mỉm cười phấn khích, gõ gõ mấy ngón tay vào không trung, nhấn nhá:
– Em tập “Time travel”, anh à!
– Có nhạc phổ đâu mà tập?
– Thì tự viết ra, nghe lại vài lần là được!
– Ơ này…
Ít phút sau, tôi bắt gặp mình đang dựng xe đạp, đứng ngẩn ngơ trước hiên nhà Tiểu Mai giờ đã kín cổng cao tường, gió bụi thổi lá cây bay lả tả càng làm bản thân thêm vạn phần thê thảm.
– Trời hỡi, Châu Kiệt Luân ơi là ông ơi, bày ra cái phim này làm gì để giờ tui đói bụng nè ông! – Tôi ngẩng mặt than khổ, nhìn bầu trời đang chuyển dần về chạng vạng với ráng chiều vàng rực trên mây.
Lỡ dặn mẹ là không chừa phần cơm nên bây giờ tôi đành mua đại một ổ bánh mì thịt rồi tiện đường ghé qua quán vi tính cũng trên đường Tuyên Quang mà trước đây tôi hay chơi.
Cắn một miếng bánh mì rõ to, tôi hăm hở gõ vào khung tìm kiếm của Google:
– Time Travel theme, Secret OST!
Kết quả nhảy ra hàng đống, tôi bắt đầu tối ưu trở lại. Bởi bản “Time travel” có đến hai phiên bản chậm và nhanh, mà phiên bản nhanh mới gọi là đỉnh cấp dương cầm.
– Time Travel extended fast version!
Lát sau, tôi bị mê mẩn với giai điệu mị hoặc của bản nhạc này, càng nghe càng thấm cái dòng thời gian trong đó. Và lại càng ngưỡng mộ họ Châu hơn, đàn gì mà nhanh dữ vậy trời, cái khúc hai tay đan chéo nhau qua lại nhìn thoăn thoắt như múa võ.
Hôm đó, tôi mải nghe nhạc phim “Secret” say sưa đến hơn tám giờ tối mới mò về tới nhà. May phước hôm nay ba tôi đi uống với hội bạn nên còn dư được phần cơm, tôi sà vào táp lia lịa.
Để lại một bình luận